Các vấn đề hiện nay Giáo_dục_Việt_Nam

Giáo dục phổ thông

Ngày 16/11/2016, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ khẳng định đến năm 2020, Đề án ngoại ngữ 9.400 tỷ đồng không đạt mục tiêu.[19]

Chương trình giáo dục phổ thông tại Việt Nam đặt nặng việc hấp thụ nhiều kiến thức tổng quát, ít chú trọng đến nâng cao đạo đức, phong cách con người, khả năng giao tiếp và sáng tạo. Nền giáo dục phổ thông không kế thừa được sự chú trọng đức dục của nền giáo dục Nho giáo Việt Nam nhưng lại thừa hưởng sự giáo điều, tầm chương trích cú của nền giáo dục này. Phần lớn thời gian dạy học dành cho cho trí dục mà trí dục cũng mới chỉ được hiểu là sự truyền đạt kiến thức từ giáo viên đến học sinh chứ chưa chú trọng đến sự phát triển tư duy của học sinh. Học sinh phổ thông dành quá nhiều thời gian cho việc học kiến thức lý thuyết, không có thì giờ vui chơi, thư giãn (sức khỏe tinh thần), tập luyện thể thao (sức khỏe thể chất), và phát triển những khả năng quan trọng khác như sự chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập, tìm hiểu, khám phá... Trong hoạt động dạy học giáo viên là người chủ động còn học sinh là người bị động. Những người thiết kế chương trình giáo dục có tham vọng đào tạo học sinh phổ thông Việt Nam có trình độ cao nhưng không tính đến khả năng tiếp thu và ghi nhớ kiến thức của học sinh cũng như khả năng truyền đạt của giáo viên trong một thời lượng giảng dạy giới hạn. Chính vì nhà giáo không có quyền chủ động trong giảng dạy dẫn đến không thể điều chỉnh nội dung và cách dạy học cho phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh, hoàn cảnh địa phương, điều kiện cơ sở vật chất...

Phương pháp giảng dạy chính trong hệ thống các trường công lập là truyền thụ một chiều từ giáo viên, điều này được coi là mang tính độc đoán. Học sinh thường mang tâm lý chấp nhận tuyệt đối và lĩnh hội trực tiếp, thụ động những kiến thức từ thầy cô và từ sách giáo khoa. Học sinh cũng không có cơ hội được tự tìm hiểu, suy nghĩ độc lập, thảo luận, phát biểu ý kiến, khám phá những gì hợp với ý tưởng của mình. Phương pháp giảng dạy này là một biểu hiện của nền giáo dục trung cổ khiến học sinh luôn thiếu tư duy và sáng tạo phù hợp trong việc tiếp cận chủ đề và hiểu sâu vấn đề của bài học. Môi trường học thiếu nhiều hoạt động nhóm do học sinh tự chủ và vì vậy không phát huy được khả năng giao tiếp và lãnh đạo.

Lương giáo viên thấp, thậm chí không đủ sống khiến giáo viên phải làm thêm nghề khác để kiếm sống và không toàn tâm toàn ý với nghề. Lương thấp khiến ngành giáo dục không thu hút được người giỏi và dễ nảy sinh tiêu cực. Hoàng Tụy nhận xét về điều này "... hiếm có nơi nào trên thế giới và cũng hiếm có thời nào trên đất nước ta người thầy mặc dù bị đối xử bất công vẫn tận tuỵ gắn bó với nghề như trong mấy chục năm nay. Khi nói điều này không phải tôi không biết những gương xấu trong ngành, những con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng tôi nghĩ số đó vẫn là số ít, số ít đáng ngạc nhiên nếu đặt trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện làm việc cực kỳ khó khăn của tất cả thầy giáo của ta. Tôi tin rằng với những hoàn cảnh như thế ở các nước khác tình hình giáo dục phải bi đát hơn nhiều. Với chính sách đối với thầy giáo như của ta mà giáo dục còn được như thế này đó thật sự là kỳ công... kinh nghiệm hơn ba mươi năm qua đã cho thấy hầu hết mọi căn bệnh tàn phá giáo dục đều có nguồn gốc ít nhiều ở cái chính sách bỏ mặc rồi khuyến khich thầy giáo tự bươn chải để kiếm sống mà làm nghề, trong một môi trường đòi hỏi họ phải toàn tâm toàn ý mới làm tốt được nhiệm vụ[20]".

Chương trình dạy và học thiếu sự linh động vì tất cả học sinh đều học cùng một chương trình trong cùng một thời gian, chưa quan tâm đến những khác biệt về sự phát triển tâm sinh lý của mỗi cá nhân và ở từng lứa tuổi, về hoàn cảnh gia đình, khác biệt về địa phương. Cách dạy và học mang tính nhồi nhét khiến học sinh rất chóng quên kiến thức. Học sinh không được khuyến khích tự học, tự vận dụng đầu óc của mình để nhận thức thế giới[21] trong khi đó Immanuel Kant định nghĩa khai sáng là khả năng "vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác[22]".

Các học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông thường tham gia các lớp học thêm, có thể kéo dài tới 9 thời điểm trong một ngày. Phụ huynh cũng đăng ký cho con em mình vào các buổi dạy kèm rộng rãi (không nhầm lẫn với các trường luyện ôn thi), vì các buổi dạy kèm này liên quan tới các bài kiểm tra hoặc kỳ thi sắp tới. Mức lương trung bình hàng tháng của giáo viên công lập ước tính khoảng từ 60 USD đến 100 USD, vì vậy làm việc ngoài giờ trong các cơ sở giáo dục tư nhân hoặc giảng dạy trong các lớp dạy thêm này sẽ bổ sung nhiều hơn cho nguồn thu nhập của giáo viên. Những học sinh không tham gia các lớp học thêm này sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì tài liệu và kiến thức có trong các bài kiểm tra và các kỳ thi thường chỉ được cung cấp và dạy trong các buổi dạy thêm này.

Khả năng vận dụng ngoại ngữ của học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông là khá kém, với phương pháp dạy học thụ động chỉ tập trung vào ngữ pháp, các kỹ năng quan trọng nhất khi làm việc hoặc giao tiếp với người nước ngoài là kỹ năng nghe và nói thì hầu như không có. Có ý kiến cho rằng: "Đề án ngoại ngữ quốc gia bao năm nay vẫn chỉ tập trung đào tạo tiếng Anh "chết". Không có kỹ năng thực hành, chỉ thi viết về từ vựng, ngữ pháp và đọc hiểu, những thứ đơn thuần là giải bài tập".[23]

Mỗi năm, Việt Nam có trên một triệu học sinh trung học phổ thông dự thi tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và khoảng 15% người đã trở thành sinh viên. Những học sinh không vào được đại học khi bắt đầu cho cuộc sống mới thường rất kém về chuyên môn nghề nghiệp, tác phong làm việc và khả năng giao tiếp.

Giáo dục đại học

Thông tin về điểm tuyển sinh, 3 điểm/môn đỗ trường sư phạm.[24] 

Toàn bộ hệ thống giáo dục đại học đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, như chương trình giảng dạy lỗi thời, giảng viên làm trung tâm trong phương pháp dạy và học, thiếu tính liên kết giữa giảng dạy và các hoạt động nghiên cứu, và sự khác biệt lớn giữa đào tạo lý thuyết và thực hành. Điều này dẫn tới hệ quả là rất nhiều sinh viên dù đã tốt nghiệp nhưng không có khả năng tìm được việc làm vì thiếu những kỹ năng nghề nghiệp. Sinh viên Việt Nam thiếu kiến ​​thức mặc dù đã được dạy rất nhiều, vì thực tế mục đích chính của việc học tập chỉ nhằm vượt qua các kỳ thi. Sinh viên xem trọng bằng cấp hơn là kiến thức tuy nhiên bằng cấp và chứng chỉ của các trường đại học tại Việt Nam không được công nhận trên toàn thế giới. Hoài Thanh từng nhận xét "Người mình vẫn được tiếng là hiếu học, nhưng đúng ra chỉ là hiếu lợi và hiếu danh. Khi sự học không đưa đến cho mình lợi và danh thì ít ai còn thèm màng đến nó nữa... Cho đến ngày nay, trong một trăm người bước chân ra khỏi nhà trường, không có lấy năm ba người để tâm vào việc học. Giữa một vũ trụ đầy những sự huyền bí, người mình như khách qua đường bưng mắt mà đi vì sợ mệt mắt. Tinh thần của mình bạc nhược như vậy không trách gì mình thua kém[25]". Có thể nói đến nay người Việt vẫn chưa có một tinh thần thực học, học vì tri thức chứ không phải vì danh lợi. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền học thuật Việt Nam trong đó có giáo dục đại học. Hơn nữa người Việt cũng không có truyền thống học thuật mạnh lại vừa chuyển từ Hán học sang Tây học trong khoảng một thế kỷ còn nền quốc học sử dụng chữ quốc ngữ mới chỉ chiếm địa vị chính thống từ năm 1945 đến nay lại phát triển trong điều kiện chiến tranh và ít giao lưu với thế giới trong thời gian dài nên nền giáo dục đại học hiện đại kém hơn các nước khác cũng là điều đương nhiên. Hoài Thanh nhận xét về truyền thống học thuật và quá trình chuyển đổi từ Hán học sang Tây học của Việt Nam "Ta không có một nền quốc học nếu quốc học là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không có sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng. Người phương Tây rất ngạc nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có Tứ thư, Ngũ kinh mà hôm nay bỗng tin theo những thuyết rất mới mẻ rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi cho đời sống dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy trở nên có hại cho đời sống chung ta sẽ trút bỏ dễ dàng không hối tiếc[26]". Việt Nam sẽ còn mất nhiều năm nữa để có một nền học thuật ngang tầm các nước trong khu vực chứ chưa nói đến các nước phát triển trên thế giới.

Việt Nam chưa có tự do học thuật nên chưa có một nền đại học thực thụ. Các trường đại học của Việt Nam lạc hậu ngay cả so với các trường đại học trong khu vực Đông Nam Á vì người ta không thể nào đạt đến chân lý trong môi trường học thuật bị chính trị hóa hay hành chính hóa cao độ, khi ngân sách nghiên cứu bị phân bổ thiên lệch, không dựa vào chuẩn mực khoa học, hay khi giảng viên và nhà nghiên cứu có thể dễ dàng bị cách chức hay hủy văn bằng chỉ vì phát biểu quan điểm không chính thống. Xã hội Việt Nam cũng ít coi trọng tự do học thuật. Hiện nay mục đích chủ yếu của việc học đại học là có tấm bằng để tìm việc làm. Giảng viên đại học thì chỉ quan tâm làm sao giữ được chỗ làm và thăng quan tiến chức nên cũng chẳng cần đến tự do học thuật. Với các đại học tư thục thì tối đa hóa lợi nhuận, chứ không phải tự do học thuật, trở thành mục tiêu hàng đầu. Chương trình đào tạo đại học hiện nay còn nhiều gò bó. Các yêu cầu bắt buộc về đào tạo chính trị, việc áp đặt chương trình khung cùng với thủ tục xin phép mở ngành mới phiền phức khiến cho các trường đại học trên thực tế không có nhiều tự do trong việc quyết định chương trình và nội dung đào tạo. Nguồn tài chính eo hẹp cũng góp phần hạn chế nhu cầu tự do học thuật. Các trường đại học quan tâm đến thu hút học sinh để cải thiện thu nhập hơn là nghiên cứu do vậy xem nhẹ nhu cầu tự do học thuật; mặt khác sinh ra động cơ tuân thủ thay vì đổi mới. Hơn nữa, với nguồn tài chính hạn chế, các trường đại học Việt Nam khó tuyển được những giảng viên và nhà quản lý đại học xuất sắc nhất. Việc thiếu vắng tài năng vừa kìm hãm sinh khí của các trường đại học vừa hạn chế nhu cầu và khả năng theo đuổi tự do học thuật của các trường đại học Việt Nam. Cuối cùng, đáng tiếc là ở Việt Nam chưa có một cộng đồng học thuật hay giới hàn lâm thực thụ. Hệ quả là sự thiếu vắng hệ thống chuẩn mực và tiếng nói chung để tạo động lực và nhu cầu cho tự do học thuật cũng như đảm bảo tự do học thuật được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội nhờ khả năng tự nhận thức và tự sửa sai của cộng đồng học thuật. Tự do học thuật trong các trường đại học Việt Nam còn nhiều hạn chế trên hầu hết các phương diện quan trọng, từ nghiên cứu và thảo luận khoa học đến công bố kết quả và phát biểu quan điểm. Những hạn chế này chủ yếu xuất phát từ tình trạng chính trị hóa và can thiệp quá mức của Nhà nước vào đại học, từ đó dẫn tới sự thiếu tự chủ của các cơ sở đào tạo đại học và mất dần ý thức tự do học thuật của giới hàn lâm cũng như của toàn xã hội.[27]

Hậu quả của những nhược điểm trên là mỗi năm Việt Nam có khoảng 150.000 sinh viên tốt nghiệp nhưng ước tính chỉ có 5-10% sinh viên giỏi nhất với trình độ tiếng Anh và khả năng giao tiếp cao tìm được việc làm với thu nhập tạm ổn định (khoảng 300 - 600 USD/tháng) từ các công ty nước ngoài, 90 - 95% số còn lại không có việc làm, hay có việc với thu nhập rất thấp (khoảng 150 USD/tháng). Theo khảo sát về việc làm của sinh viên đã tốt nghiệp trong năm học 2009–2010 do Trung tâm Nghiên cứu chính sách – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, trong số 3000 người được hỏi, 26,2% cho biết họ vẫn thất nghiệp với đa số không thể tìm được việc làm. Trong số những người có việc làm, 61% cho biết họ thiếu kỹ năng làm việc, 42% thiếu kinh nghiệm và 32% thiếu kiến thức chuyên môn[28]. Việc đào tạo ngành giáo dục sư phạm hiện nay diễn ra tràn lan, sinh viên với 9 điểm tương ứng với ba môn thi khoanh trắc nghiệm tùy ý và thêm điểm cộng vùng là có thể đỗ vào các trường cao đẳng sư phạm[29] do đó sinh viên sư phạm có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất[30].

Hiện nay, nhà nước Việt Nam đang tích cực cải cách hệ thống giáo dục đại học bằng việc trao thêm quyền cho các trường đại học. Điều 32 Luật Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 quy định "Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục.". Điều 36 luật này cũng quy định "Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn, duyệt giáo trình giáo dục đại học để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập trong cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học thành lập.", tuy nhiên "Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn giáo trình sử dụng chung các môn lý luận chính trị, quốc phòng - an ninh để làm tài liệu giảng dạy, học tập trong các cơ sở giáo dục đại học"[31]. Các lãnh đạo hàng đầu của Chính phủ Việt Nam bày tỏ sự ủng hộ tự chủ đại học và yêu cầu thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình này[32]. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng các trường đại học Việt Nam chưa đủ năng lực và thiếu sự sẵn sàng cho việc tự chủ[33][34], các điều khoản trong Luật Giáo dục Đại học cho thấy quyền tự chủ của các trường đại học khó có thể trở thành hiện thực vì có quá nhiều điểm hoàn toàn trái với tinh thần tự chủ đại học hoặc mơ hồ đến độ không thể thực thi[35]. Luật giáo dục đại học sửa đổi số 34/2018/QH14 được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 19/11/2018 định nghĩa "Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.". Điều 32 của luật này quy định "Chính phủ quy định chi tiết về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học.".[36] Trên thực tế, hiện nay, tự chủ đại học Việt Nam là tự chủ có điều kiện vì các trường đều phải báo cáo và xin phê duyệt của cơ quan quản lý cấp trên[37]. Các trường đại học công tại Việt Nam trên danh nghĩa được tự chủ nhưng phải phụ thuộc quá nhiều cơ quan quản lý như mở ngành đào tạo phải xin phép Bộ Giáo dục Đào tạo; tăng giảm học phí phải xin phép Bộ Tài chính; xây dựng hạ tầng, mua sắm thiết bị và các hoạt động khác cũng phải thông qua các cơ quan quản lý khác nhau với quá nhiều văn bản, thủ tục hành chính; thậm chí nâng lương cho các giáo sư thì cũng cần Bộ Nội vụ duyệt, mặc dù Bộ Nội vụ chẳng biết người đó là ai[38]. Tự chủ đại học được quy định trong Luật Giáo dục Đại học Việt Nam cũng chỉ là tự chủ thủ tục trong đó trường đại học có thẩm quyền trong việc thực hiện các quyết định sẵn có nhưng không có quyền đưa ra quyết định của riêng mình, hoặc chỉ có quyền đưa ra các quyết định từng phần. Sự tự chủ này khác với các trường đại học phương Tây được tự chủ thực chất trong đó trường đại học có thẩm quyền đầy đủ để đưa ra các quyết định để vận hành nhà trường hướng tới mục tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn và các giá trị cốt lõi đã được xác định. Nhà nước chưa ban hành quy định cụ thể nào về quyền của các trường đại học trong việc xác lập quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của họ nhưng lại quy định các quyền tự chủ của đại học đều phải theo qui định nhà nước. Trong suốt tiến trình thực thi tự chủ đại học, chưa thấy Bộ Giáo dục có một văn bản nào hướng dẫn các đại học thực hiện các quyền tự chủ mà chỉ thấy các văn bản duy trì cơ chế tập quyền, hạn chế quyền tự chủ của các đại học và buộc các trường phải thực hiện đúng quy định hiện hành. Hội đồng trường là thiết chế vận hành một đại học tự chủ lại hữu danh vô thực, không có tiếng nói, không có quyền lực cũng như không có tài chính.[39] Đến giữa năm 2018 có 2/3 trong tổng số các trường công lập chưa thành lập hội đồng trường[37].

Những vấn đề khác

  • Các trường công lập đang gặp nhiều khó khăn về tài chính. Hiện tại, chỉ có các trường tiểu học được Nhà nước trợ cấp đến 50% tổng học phí. Tỷ lệ nhập học có thể cao, tuy nhiên chất lượng giáo dục tiểu học ở các vùng nghèo không đạt yêu cầu. Hơn nữa, tỷ lệ bỏ học sau lớp Năm cũng cao, đặc biệt là ở vùng nông thônmiền núi, vì hầu hết học sinh đều nghèo đói, không đủ tiền để học trung học hoặc đại học. Nghỉ học thường xuyên cũng khiến lực học và kết quả học tập kém. Đánh giá Nghiên cứu mức độ nghèo (PPA) cho thấy với nhiều hộ gia đình nghèo, lao động trẻ em được coi là có giá trị hơn việc đi học. Đối với các gia đình nghèo, cơ hội và chi phí cho việc đưa con đến trường được xem là quá cao, và lợi ích lâu dài của giáo dục không thể so sánh với những thiệt hại kinh tế ngắn hạn. 
  • Hiện nay, ngành giáo dục đang gặp phải một vấn đề rất đáng lo ngại là sự xuống cấp trong chất lượng của đội ngũ giáo viên. Ngành sư phạm không được đầu tư và quan tâm đúng mức, đầu vào điểm chuẩn thấp[40][41][42][43], việc làm của các sinh viên ngành sư phạm sau khi ra trường không ổn định, mức lương và đãi ngộ còn thấp[44][45] trong khi áp lực công việc và cuộc sống lại quá cao[46], dẫn đến tình trạng giáo viên không thực sự chuyên tâm vào nghiên cứu giảng dạy. Rất nhiều giáo viên đã phải mở các lớp dạy thêm để kiếm thêm thu nhập[47][48], hoặc phải làm nghề tay trái khác.
  • Quá nhiều trường đào tạo về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân hàng... nhưng rất ít trường về công nghệ, kỹ thuật, khoa học. Quá nhiều đại học, cao đẳng kém chất lượng, nhưng rất it trung cấp kỹ thuật. Cơ cấu đào tạo khiến trong nước rất thiếu công nhân lành nghề, rất thiếu cán bộ kỹ thuật trung cấp giỏi, nhưng thừa kỹ sư, cán bộ quản lý tồi. Chính vì thế nền giáo dục không đủ sức đáp ứng nhu cầu nhân lực để phát triển nền công nghiệp Việt Nam.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giáo_dục_Việt_Nam http://www.ninh-hoa.com/bk-ThuyNguyen_GiaoDucvaThi... http://www.thegioitoi.com/main.php?asin=detail&id=... http://www.danchimviet.info/archives/32514 http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/giao-duc/2009/10/3b... http://web.archive.org/web/20050404180245/http://v... http://web.archive.org/web/20070125222206/http://v... http://web.archive.org/web/20070706222856/http://v... http://web.archive.org/web/20070706222856/http://v... http://web.archive.org/web/20100416050223/http://w... http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=119...